Sinh sống nhiều năm trên vùng đất địa đầu Tổ quốc, dân tộc Lô Lô tạo ra, lưu giữ nền văn hoá phong phú với những tiệc tùng truyền thống, văn hoá dân gian, phong tục cưới hỏi rực rỡ. Nền văn hoá dân tộc Lô Lô hoà quyện với nền văn hoá 54 dân tộc bằng hữu, tạo lên bức tranh văn hoá Việt Nam nhiều mẫu mã, lung linh sắc mầu.
Dân tộc Lô Lô có những tên thường gọi khác là Mùn Di, Di, Màn Di, La La, Ô Man, Lu Lộc Màn… Theo kết quả tìm hiểu dân số năm 2019, dân tộc Lô Lô có 4.827 người, cư trú đa số ở những huyện Ðồng Văn, Mèo Vạc (tỉnh Hà Giang), Bảo Lạc (Cao Bằng), Mường Khương (Lào Cai). Người Lô Lô có đời sống văn hoá, tinh thần phong phú, cho tới nay những lợi ích truyền thống cuội nguồn của dân tộc Lô Lô vẫn được gìn giữ hầu như nguyên vẹn, điều mà không phải dân tộc thiểu số nào thì cũng làm được.
Sinh sống gắn bó mật thiết với đời sống nông nghiệp, với núi rừng đồng bào Lô Lô phác lên những ý niệm về nhân sinh quan, trái đất quan sinh động trước các hiện tượng tự nhiên và xã hội.
Những ý niệm của người Lô Lô, phản ánh lợi ích tinh thần to lớn, thể hiện những hành vi ứng xử giữa người với người, giữa nhân sự với quần chúng làng xã, giữa nhân sự với tự nhiên, vũ trụ của quần chúng dân tộc Lô Lô. Người Lô Lô có mạng lưới hệ thống các nghi lễ như: Lễ tế trời, Lễ cầu an, Lễ cúng thổ thần…
Trong số đó, Lễ cầu an là một sinh hoạt văn hoá đặc trưng phản ánh đậm nét tín ngưỡng của đồng bào, tiệc tùng được lưu truyền và kế thừa qua nhiều thế hệ người Lô Lô. Đồng bào ý niệm, cuộc sống thường ngày dù có khó khăn vất vả đến mấy nhưng gà và lợn là hai loài vật không thể thiếu trong tiệc tùng cầu an, bởi gà là loài vật thân mật, thân thiết mang lại như ý cho dân làng. Trong Lễ cầu an, lưỡi kiếm và sợi dây đỏ dùng làm loại trừ tà ma, xua đuổi những điều không như ý và đó là những lễ vật do bàn tay lao động của bà con làm ra với tấm lòng tôn kính mong rằng các vị thần linh sẽ phù hộ cho làng bản, quần chúng.
Mỗi ngôi làng người Lô Lô có cộng đồng một khu rừng rậm thiêng, cấm kỵ chặt phá. Đồng bào ý niệm, rừng là nơi trú ngụ của thần linh, nơi giữ nguồn nước cho tất cả những người dân bản, làng. Trong xóm Lô Lô, có những cây cổ thụ rợp bóng mát được người dân ý thức giữ gìn, tạo thành cảnh sắc tự nhiên riêng của những làng bản người Lô Lô.
Phụ nữ Lô Lô với trang phục truyền thống cuội nguồn dân tộc. (Ảnh minh họa chụp trước dich Covid-19)
Trong đời sống quần chúng, người Lô Lô có nhiều dòng họ. Người trong dòng họ sinh sống quần cư thành một làng. Ðứng đầu dòng họ là Thầu chú, có vai trò phụ trách việc cúng bái và giữ tục lệ của dòng họ.
Mỗi làng Lô Lô có tầm khoảng 25 nóc nhà, kiến trúc nhà xây dựng tựa lưng vào núi, nhìn ra thung lũng thông thoáng, có 3 loại nhà chính gồm nhà đất, nhà sàn nửa đất và nhà sàn được làm bằng gỗ có 3 gian và không tồn tại chái, gian chính để thờ tổ tiên và tiếp khách hàng. Trong nhà bàn thờ tổ tiên tổ tiên đặt sát vách, đối lập với cửa chính.
Là một dân tộc có nền văn hoá tăng trưởng, có trống đồng cổ, chữ viết tượng hình xa xưa… đồng bào Lô Lô rất tự hào về nền văn hoá phong phú của dân tộc mình qua những điệu múa, làn điệu dân ca, các truyện cổ tích. Trống đồng là một bảo vật văn hóa truyền thống của người Lô Lô, một vật thiêng liên kết giữa thần linh và nhân sự, vì vậy, trống đồng chỉ được vang lên trong những dịp đặc biệt quan trọng trọng điểm của dân làng: tang tế, lễ cúng thổ thần, lễ tế trời đất và các nghi lễ sinh hoạt văn hóa truyền thống quần chúng.
Một bộ trống đồng có 2 cái (một trống đực và một trống cái). Trống đực đường kính mặt rộng khoảng trên 60cm, giữa mặt trống có hình ngôi sao 5 cánh 12 cánh, tang nở, thân eo, chân choãn. Đường kính chân trống 56 cm, cao 37 cm và có 4 quai sắp đặt thành 2 cặp đối xứng qua trục thân.
Trống đồng của dân tộc Lô Lô khác với trống đồng dân tộc khác ở những lỗ thủng tròn trên mặt trống. Bởi người Lô Lô ý niệm, trống đồng là hình mẫu của vũ trụ, hình tròn trụ giữa mặt trống là hình tượng mặt trời, những tia trống là các con mắt của trời, các hoa văn xung xung quanh trống là các hành tinh xung xung quanh mặt trời.
Người Lô Lô rất coi trọng trống đồng, được cất giữ cảnh giác bởi trưởng họ. Mỗi tháng, gia đình giữ trống phải thắp hương cúng khấn ba lần. Đặc biệt quan trọng, khi mang trống ra sử dụng nên phải thắp hương xin phép tổ tiên rồi mới được hạ trống xuống.
Chữ viết của dân tộc Lô Lô là chữ tượng hình, lúc này đã biết thành mai một. Lịch Lô Lô chia một năm thành 11 tháng, mỗi tháng tương ứng với tên một loài vật.
Trong đời sống tín ngưỡng, các nghi lễ vòng đời được tổ chức nghiêm ngặt theo một số phong tục truyền thống. Khi bố hoặc mẹ qua đời, ít nhất một năm con cháu mới được tổ chức triển khai lễ cưới hỏi. Người Lô Lô cúng tổ tiên, ông bà vào các dịp như rằm tháng 7, tết năm mới tết đến. Trong đời sống hôn nhân gia đình, người Lô Lô sống một vợ một chồng, cư trú trong nhà chồng, nam, nữ thanh niên Lô Lô được tự do tìm hiểu để tiếp cận hôn nhân gia đình. Các nghi lễ tương quan tới đời người từ sinh ra đến khi kết thúc vòng đời mang đậm dấu ấn văn hoá Lô Lô.
Thiếu nữ dân tộc Lô Lô reviews nhà hàng trong thời gian ngày hội văn hoá truyền thống cuội nguồn Tây Bắc, tại Làng Văn hoá Du ngoạn các dân tộc Việt Nam, Đồng Mô (Sơn Tây – TP Hà Nội); (Ảnh minh họa chụp trước dich Covid-19)
Văn hóa truyền thống dân gian Lô Lô nhiều mẫu mã, rực rỡ thể hiện qua các điệu nhảy múa, hát ca, truyện cổ, thẩm mỹ diễn xướng dân gian… Cách sắp đặt hoa văn trên khăn áo, váy, trang phục mang nét riêng không liên quan gì đến nhau, phụ nữ Lô Lô mặc áo cánh, cổ tròn, xẻ ngực, quần ống què có trang trí hoa văn với những gam mầu rực rỡ. Phái nam Lô Lô mặc trang phục màu chàm, trang trí điểm xuyết hoa văn. Các hoa văn, hoạ tiết trên trang phục có nội dung mô phỏng các sinh hoạt, tín ngưỡng trong đời sống người Lô Lô. Những hoa văn trên trang phục cũng mang nhiều điểm tương đương với những hoạ tiết trên trống đồng của người Lô Lô.
Người Lô Lô có tới 36 điệu đánh trống khi làm lễ tế trời dùng trống trời (mồ dảnh), khi làm lễ cúng thổ thần dùng trống ếch (po dảnh) và tang ma dùng múi dảnh, thắng dảnh. Khi đánh trống, người đánh trống đeo trống đực bên phải, trống cái đeo bên trái, dùng dùi tre dài khoảng 15 cm, đường kính 1 cm và một thanh tre dẹt 20 cm để đánh trống.
Khái niệm các nghi lễ khác, tiếng trống đồng là thanh âm không thể thiếu trong những điệu múa dân gian, trong vô số các điệu múa nghi lễ và vui chơi của người Lô Lô, có điệu múa “người rừng” là một đặc trưng văn hoá, mang đậm tín ngưỡng nguồn cội về tổ tiên, về rừng.
Không chỉ có thế, vào mỗi dịp Tết đến Xuân về hay những dịp tiệc tùng quần chúng, tiếng trống đồng lại vang lên hòa cùng âm thanh núi rừng tạo thành bản nhạc đầy sắc tố trong điệu nhảy, tiếng cười của đồng bào Lô Lô.
Hòa cùng chiều sâu văn hoá dân tộc Lô Lô, hoà cùng thanh âm của núi rừng Tây Bắc, tiếng trống đồng như một biểu trưng văn hoá của dân tộc Lô Lô được gìn không thay đổi vẹn, như một mạch nguồn văn hoá chảy mãi không khi nào cạn trên vùng đất địa đầu Tổ quốc.
Bài, ảnh: N.Dương