Nhà cụ Ma Thị Phú, xóm Sơn Vinh, xã Sơn Phú, huyện Định Hóa, tỉnh Thái Nguyên, thời điểm hôm nay râm ran tiếng nói cười. Giữa nhà, ô bếp vuông rực than hồng, vùi mấy tấm cơm lam tỏa mùi nếp nương thơm lựng, khói bốc lên bọc chục chiếc vành nón tròn xoe treo lủng lẳng trên gác bếp. Đã 92 tuổi nhưng cụ Phú xâu kim chưa phải đeo kính. Bên ô cửa nhà sàn nhìn ra đường làng, cụ ngồi làm việc quen thuộc từ thời đàn bà: Đan nón Tày.
Cụ Ma Thị Phú miêu tả quy trình làm nón
-15 tuổi bà đi lấy chồng rồi lố. Mẹ bà dạy cho làm nón lố. Ui da, đàn bà về nhà chồng không biết làm nón là mẹ chồng ghét lắm á – Cụ Phú luôn tay tước những sợi “móc” bé xíu trên tấm bẹ cây, vui vẻ kể.
– Nón to hay nhỏ tùy thuộc vào dóng cây giang chị ạ. Tìm ra cây giang to, dóng dài khó lắm – Ma Tử Thế, đàn ông út của cụ Phú đỡ lời mẹ – Nan nón phải “chuốt” từng sợi, người “chuốt” phải dùng “thịt” của ngón tay để cảm nhận. Nếu nan dày mỏng không đều thì cái nón khi đội sẽ “kênh” lên, mắc vào tóc.
Nhìn đám “phoi” giang xù trắng dưới ngón tay cụ Phú, tôi chợt nhớ 2 câu thơ trong bài Việt Bắc ở trong nhà thơ Tố Hữu: “Mùa xuân mơ nở trắng rừng/ Nhớ người đan nón chuốt từng sợi giang”. Bài thơ viết năm 1954 ở ATK Định Hóa này, biết đâu “người chuốt từng sợi giang” lại là người con gái Tày xinh đẹp Ma Thị Phú, năm ấy 24 tuổi?
Tự cười mình vì tâm lý ngộ nghĩnh chợt đến, tôi “xán” vào chỗ cụ Phú xem cụ tạo hình “xương” nón. Khó nhất là đan chỗ chóp nón. Độ nhọn, độ khum phải vừa vặn ôm khít lấy đỉnh đầu. Từ đấy, những sợi nan giang dẻo mềm, xoắn xuýt tỏa tròn xuống, chỗ “mắt đơn” chỗ “mắt kép” ràng níu nhau tạo ra bộ “xương” trưởng thành. Xương đan xong thì đặt vành vào phía trong thâm tâm nón, dùng dây móc khâu lại. Vành vót bằng tre già, to cỡ đũa ăn cơm, treo gác bếp lâu ngày cho thấm đẫm hơi khói; củ nâu giã nhuyễn nhào với nhọ nồi nhuộm cho chiếc vành đen nhánh. Khác với nón của người Kinh lợp bằng 2 lớp lá trắng kẹp mo nang ở giữa; khác với nón của người Nùng (Cao Bằng) lợp bằng lá mai “kẹp” lá chuối khô, người Tày chọn 3-4 chiếc lá cọ úp chồng lên nhau để lợp nón.
-Giờ bà không vào rừng tìm lá được nữa rồi, phải nhờ con cháu thôi. – cụ Phú đưa tay xoa xoa đốt xương gồ nhọn lưng áo bạc mầu, thủ thỉ với tôi.
Lá chọn lợp nón phải trổ trong bóng râm, tròn xoe, khoảng 15 ngày tuổi. Gượng nhẹ chặt lá về, hơ lên than hồng cho lá mềm oặt, rồi phơi nắng, lại ngâm nước cho nở xòe ra, lúc ấy mới mang lợp. Cái lá non kịp trải qua nóng lạnh, vừa cứng vừa dẻo, mới xứng trở thành đời nón, ngự trên đầu người trải qua mưa nắng. Dù 3-4 cái lá chồng lên nhau nhưng mặt dưới lá “ăn” vào “xương nón”, mặt trên phẳng phiu, chóp nón xoáy một vòng đồng tâm kín chặt, không “sợi nắng sợi mưa” nào hoàn toàn có thể lọt vào. Quy trình ở đầu cuối là xén lá xung quanh miệng nón, bịt đầu lá bằng vỏ cây guột già, khâu dằng bằng sợi móc đen nhánh, nhỏ ngang sợi chỉ, dai tựa dây cước, tước từ bẹ cây móc mọc trên rừng. Khác nón người Nùng chóp nhọn sang chảnh, khác nón người Kinh trắng nõn thướt tha ưa nhìn ngay từ cái nhìn trước tiên, nón người Tày duyên ngầm với những chiếc hoa văn dân tộc bằng len nhiều màu thêu ẩn ở phần chóp nón, phải ngắm kỹ mới thấy được.
Cầm trên tay chiếc nón cụ Phú vừa làm xong, tôi thấy một Thái Nguyên “nửa đồng nửa núi”. Nơi ấy “cọ xòe ô che nắng”, nứa tre làm các bạn với người; nơi ấy cây xanh hiền lành phủ quanh nếp nhà sàn 9 bậc cầu thang sẫm màu kỷ niệm. Đời người phụ nữ Tày gắn với nón lá. Mươi, mười lăm tuổi cô gái được mẹ, được bà dạy làm nón như trao truyền đức tính kiên trì, chịu khó để trải qua cuộc sống khó nhọc này; khi tình yêu này nở, người con gái trao nón làm tin; ngày về nhà chồng, cô dâu nón đội trên đầu; khi có con, bà mẹ trẻ che nón cho con đi chợ ngày đầy tháng (lễ Khay Bươn); nón theo cô lên nương lên rẫy, nón nghiêng giấu giọt nước mắt tủi hờn và nếp nhăn đếm thời hạn; khi qua đời, nón treo chỗ mộ phần cho những người phụ nữ về nơi ấy đỡ mưa đỡ nắng. Cái nón đựng cả quê nhà, đựng cả vui buồn đời người là như vậy.
Cụ Phú cần mẫn đan một tuần được 2 cái nón loại hạng tầm trung, bán 60-65 nghìn/cái. Lấy công làm lãi, mỗi ngày cụ thu về 20-30 nghìn đồng. “Thêm tiền mua thuốc đỡ con cái thôi lố” – cụ Phú lẩm rẩm bảo thế. Cả xóm Sơn Vinh chỉ với 1-2 người đan nón ở tuổi 80-90, coi như họ đang “mót” chút thể chất ở đầu cuối trời cho.
Rời nhà cụ Phú, Shop chúng tôi đến bản Quyên (xã Điềm Mặc). Trên nếp nhà sàn cũ, Shop chúng tôi gặp bà Ma Thị Thi (73 tuổi) và bà Đặng Thị Hảo (78 tuổi), hai bà vừa làm nón vừa rủ rỉ chuyện trò. Bà Hảo trước ở Tân Trào (Tuyên Quang), nón của bà từng đoạt quán quân cuộc thi làm nón đẹp. 60 năm vừa qua sang Định Hóa lấy chồng, cô dâu Hảo đội chiếc nón do chính tay mình làm, hông đeo “phẻn” dao gỗ theo phong tục. Mẹ chồng nhìn cái nón tròn trịa, lá dày muốt, đường thêu mịn nổi căng trong thâm tâm nón, gật gù hài lòng. Và cụ Phú, bà bảo mỗi tháng làm ra được khoảng 1 triệu đồng, mà toét mắt, còng lưng, nhưng không làm cũng buồn chân buồn tay và lại không tồn tại đồng ra đồng vào.
Bà Đặng Thị Hảo đang đan xương nón.
Tương tự xóm Sơn Vinh, bản Quyên chỉ với 2 người làm nón, độ tuổi xấp xỉ 70. Đó cũng là số lượng trung bình ở những xóm, xã khác của huyện Định Hóa tôi nắm được. Số nón rất ít người lớn tuổi các bà làm ra thường mang nhỏ lẻ ở chợ hoặc bán “xô” cho một số trong những điểm du ngoạn trong và ngoài tỉnh.
Ở vùng Tày của hai xã Sơn Phú và Điềm Mặc một ngày, Shop chúng tôi không gặp ai đội nón Tày. “Cuộc chiến” giữa chiếc nón lá cọ làm đơn chiếc bằng tre nứa thô mộc không cân sức với chiếc mũ bảo hiểm (bắt buộc khi đi xe máy) và mũ thời trang công nghiệp bán ngàn ngạt ngoài đường. Rõ ràng nghề làm nón lá ở Định Hóa đang “về già” và dần biến mất cùng những người dân làm ra nó.
Đã lâu rồi, cô dâu Tày về nhà chồng không phải mang theo chiếc nón tự làm. Trong những tấm ảnh cưới treo trên vách nhà người Tày tôi đến, cô dâu đội vương miện và mặc váy trắng lòa xòa. Người đội nón ít, người làm nón ít, thu nhập quá “bọt bèo”, thành thử không tồn tại người trẻ nào lấy làm nghề sinh nhai. Bộ trang phục của phụ nữ Tày gồm: Áo chàm, khăn đội đầu, bộ xà tích bằng bạc kêu “lóc xóc” ngang hông và chiếc nón lá cọ đang dần thiếu đi một thứ.
Thấy rõ tiềm ẩn nguy cơ này, Nghị quyết Đại hội Đảng bộ tỉnh Thái Nguyên lần thứ XX (nhiệm kỳ 2020-2025) đã đưa ra tiềm năng: “Làm tốt công tác bảo tồn, tôn tạo và phát huy các di sản văn hóa; các di tích lịch sử cách mạng; văn hóa, văn nghệ mang bản sắc truyền thống của các dân tộc thiểu số trên địa bàn”. Dù Nghị quyết bao quát rộng như vậy nhưng nếu tất cả chúng ta triển khai tốt các giải pháp thì chiếc nón lá cọ của người Tày Thái Nguyên hoàn toàn có thể tồn tại lâu hơn. Nếu ATK Định Hóa có một vài làng nghề làm nón cọ, các nghệ nhân như cụ Phú, bà Thi, bà Hảo… sẽ tiến hành mời vào đây dạy cho những người trẻ, tạo ra một thế hệ tiếp nối làm nghề truyền thống cuội nguồn. Kỳ vọng đến một ngày, khách hàng du ngoạn đến với Thủ đô gió ngàn không những tham quan hàng trăm di tích lịch sử dân tộc mà còn phải được nghe đàn tính, hát then, ăn cơm nếp mới trong ống tre vùi than củi và mua những chiếc nón lá mang tâm hồn Việt Bắc về làm kỷ niệm.
Kỳ vọng, đồng thời áo chàm, vòng bạc đeo cổ, dây xà tích thắt ngang hông, chiếc nón lá cọ bản sắc tiếp tục được “sống” trong quần chúng dân tộc Tày của Thái Nguyên.
Minh Hằng